Liệu Pháp Ánh Sáng Laser Photobiomodulation Và Ung thư: Sự Thật Là Gì?

Liệu Pháp Ánh Sáng Laser Photobiomodulation Và Ung thư: Sự Thật Là Gì?

Việc sử dụng liệu pháp ánh sáng ngày càng tăng là để giảm thiểu tác dụng phụ của liệu pháp ung thư, bài tổng quan ngắn này tìm cách kiểm tra nghiêm túc bằng chứng về việc liệu pháp ánh sáng có lợi hay có hại ở bệnh nhân ung thư. Nhiều bài báo cho rằng ánh sáng có thể trực tiếp phá hủy khối u, có thể tạo ra các phương pháp điều trị ung thư khác và có thể kích thích hệ thống miễn dịch của vật chủ. Hơn nữa, có hai thử nghiệm lâm sàng cho thấy tỷ lệ sống sót tăng lên ở những bệnh nhân ung thư được điều trị bằng Photobiomodulation.

Giới thiệu
Photobiomodulation (PBM) là việc sử dụng ánh sáng đỏ hoặc cận âm (NIR) để chữa lành, phục hồi và kích thích nhiều quá trình sinh lý và sửa chữa các thương tổn do chấn thương hoặc bệnh tật. PBM khởi đầu như một phương pháp được gọi là liệu pháp laser mức độ thấp, LLLT, hồi cuối những năm 1960 và được áp dụng lâm sàng để chữa lành vết thương và giảm đau và viêm trong một loạt các điều kiện chỉnh hình.
PBM và ung thư
Người ta nhận ra rằng PBM có hiệu quả cao trong việc giảm thiểu nhiều tác dụng phụ đáng lo ngại xảy ra do một loạt các loại trị liệu ung thư khác nhau. Những tác dụng phụ này có thể nghiêm trọng đến mức chúng thường dẫn đến việc trì hoãn hoặc ngừng điều trị ung thư với nguy cơ để lại hậu quả xấu hơn cho bệnh nhân. Có lẽ chỉ định hiệu quả nhất đối với PBM (trong số tất cả các bệnh và tình trạng đã biết) là viêm niêm mạc miệng.Viêm niêm mạc miệng là tác dụng phụ phổ biến của nhiều loại hóa trị và xạ trị trong điều trị ung thư đầu và cổ. Các tác dụng phụ khác đang được điều tra bằng điều trị PBM là bệnh lý thần kinh ngoại biên do hóa trị liệu, viêm da phóng xạ liên quan đến điều trị ung thư vú và phù bạch huyết do phẫu thuật ung thư vú.



PBM có thể tấn công trực tiếp hay gián tiếp vào ung thư?
Khi chúng tôi xem xét khả năng PBM có thể có tác dụng có lợi đối với bệnh ung thư, điều quan trọng là phải nhận ra rằng có ba cách có thể xảy ra

Đầu tiên liên quan đến tác động trực tiếp của ánh sáng lên các tế bào khối u và có thể được coi là việc sử dụng một cách có chủ ý đường cong phản ứng liều biphasic đối với các liều tế bào ung thư.
Phương pháp thứ hai dựa vào việc kết hợp PBM với một liệu pháp chống ung thư gây độc tế bào bổ sung làm tăng khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư, đồng thời bảo vệ các tế bào khỏe mạnh bình thường. Mặc dù điều này có vẻ như quá tốt để trở thành sự thật, nhưng có một số lý do khoa học tại sao thực tế lại có thể như vậy. Những cân nhắc này có liên quan đến hiệu ứng Warburg: các tế bào ác tính và các tế bào bình thường có thể hoạt động rất khác nhau khi đáp ứng với PBM. Trong các tế bào ung thư, nơi cung cấp adenosine triphosphate (ATP) khá hạn chế, việc tăng cường ATP do PBM cung cấp có thể cho phép các tế bào ung thư đáp ứng với các kích thích gây độc tế bào prooptotic bằng cách tiêu diệt tế bào ung thư.

Cơ chế thứ ba, theo đó PBM có thể có lợi cho bệnh nhân ung thư, là vai trò có thể của nó trong việc kích thích hệ thống miễn dịch để chống lại ung thư. PBM cũng làm giảm số lượng đại thực bào có tính tạo mạch cao trong khối u và thúc đẩy việc bình thường hóa mạch máu, đây là một chiến lược khác để kiểm soát sự tiến triển của khối u.

Có bằng chứng về hiệu quả lâm sàng?
Một bài báo gần đây rất thú vị đã báo cáo rằng PBM thực sự có thể làm tăng kết quả điều trị và sống sót không tiến triển ở bệnh nhân ung thư. Chín mươi bốn bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vòm họng, amidan và thanh quản đã được điều trị bằng xạ trị thông thường cộng với cisplatin cứ sau 3 tuần. PBM phòng ngừa được áp dụng cho chín điểm trên niêm mạc miệng hàng ngày, từ thứ hai đến thứ sáu, và kéo dài trung bình 45,7 ngày. Các thông số PBM là 660 nm, 100 mW, 4 J / cm2 và kích thước điểm 0,24 cm2. Trong thời gian theo dõi là 41 tháng, bệnh nhân dùng PBM có đáp ứng điều trị tốt hơn đáng kể về mặt thống kê so với những người trong nhóm giả dược (p = 0,013). Những bệnh nhân điều trị với PBM có tỷ lệ tiến triển bệnh tốt hơn so với những người trong nhóm giả dược (p = 0,030) và xu hướng sống sót cũng cao hơn.
Santana- Blank và cộng sự. đã thực hiện thử nghiệm PBM giai đoạn 1 trên 17 bệnh nhân mắc nhiều loại ung thư 'ác tính tiến triển'. Họ đã sử dụng tia laser hồng ngoại 904nm, xung ở tần số 3 MHz, sử dụng sóng hình mũ cao 2 mm với chùm 10 mm đường kính và được đặt ở các góc vuông với bề mặt da của bệnh nhân ở những khu vực được xác định trước đó gần nhất với các mạch điện kín sinh học và mạch kín kẽ mạch máu sẽ mang năng lượng laser đến các mô đích một cách hiệu quả nhất. Sự gia tăng đáng kể về mặt thống kê về tình trạng hiệu suất và chất lượng cuộc sống của Karnofsky (QLI) đã được quan sát trong tất cả các khoảng thời gian theo dõi so với các giá trị tiền xử lý.

Kết luận
PBM đang trở thành một phương pháp tốt để giảm thiểu hoặc ngăn ngừa sự phát triển của liệu pháp ung thư liên quan đến tác dụng phụ. Câu hỏi hấp dẫn hơn không chỉ là liệu PBM có an toàn và hiệu quả ở bệnh nhân ung thư hay không, mà liệu PBM có thể đóng vai trò tích cực trong điều trị ung thư? Có những báo cáo trêu ngươi rằng đây thực sự có thể điều trị được trong vài trường hợp nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi cần được trả lời. Trong các trường hợp khác, tác dụng chính của PBM xuất hiện để kích thích hệ thống miễn dịch.

Quay lại blog

Để lại bình luận

1 trong số 2