của Michael R. Hamblin, PhD,1 Scott T. Nelson, BA,2 và Justin R. Strahan , BS2
Sơ yếu lý lịch : Liệu pháp Photobiomodulation (PBM), hay liệu pháp ánh sáng laze, là một phương pháp đang phát triển nhanh chóng để kích thích quá trình chữa lành, giảm đau, tăng hiệu suất thể thao và cải thiện sức khỏe nói chung.
Việc sử dụng liệu pháp ánh sáng ngày càng tăng là để giảm thiểu tác dụng phụ của liệu pháp điều trị ung thư, bài đánh giá ngắn này tìm cách kiểm tra nghiêm túc bằng chứng về việc liệu liệu pháp ánh sáng có lợi hay có hại ở bệnh nhân ung thư. Nhiều bài báo cho rằng ánh sáng có thể trực tiếp làm tổn thương khối u, có thể tăng cường các liệu pháp điều trị ung thư khác và có thể kích thích hệ thống miễn dịch của vật chủ. Hơn nữa, có hai thử nghiệm lâm sàng cho thấy tỷ lệ sống sót tăng lên ở những bệnh nhân ung thư được điều trị bằng quang hóa
Giới thiệu
Photobiomodulation (PBM) là việc sử dụng ánh sáng đỏ hoặc cận hồng ngoại (NIR) để chữa lành, phục hồi và kích thích nhiều quá trình sinh lý cũng như sửa chữa tổn thương do chấn thương hoặc bệnh tật. PBM bắt đầu với cái tên từng được gọi là ''liệu pháp laser mức độ thấp, LLLT'' vào cuối những năm 1960 và được áp dụng lâm sàng để chữa lành vết thương, giảm đau và viêm trong nhiều tình trạng chỉnh hình.
PBM và ung thư
Người ta nhận ra rằng PBM có hiệu quả cao trong việc giảm thiểu nhiều tác dụng phụ khó chịu xảy ra do một loạt các loại trị liệu ung thư khác nhau. Hình 1 trình bày một bản tóm tắt đồ họa về các loại tác dụng phụ khác nhau của liệu pháp điều trị ung thư có thể được điều trị bằng PBM. Những tác dụng phụ này có thể nghiêm trọng đến mức chúng thường dẫn đến việc đình chỉ hoặc ngừng điều trị ung thư với rủi ro hậu quả cho bệnh nhân. Có lẽ chỉ định hiệu quả nhất đối với PBM (trong số tất cả các bệnh và tình trạng đã biết) là viêm niêm mạc miệng.10 Viêm niêm mạc miệng là tác dụng phụ phổ biến của nhiều loại hóa trị và xạ trị đối với ung thư đầu và cổ. Các tác dụng phụ khác đang được điều tra bằng phương pháp điều trị PBM là bệnh lý thần kinh ngoại vi do hóa trị liệu, viêm da do bức xạ liên quan đến điều trị ung thư vú và phù bạch huyết do phẫu thuật ung thư vú.
PBM có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tấn công ung thư?
Khi chúng tôi xem xét khả năng PBM có thể có tác dụng có lợi đối với bệnh ung thư, điều quan trọng là phải nhận ra rằng có ba cách khả thi để điều này có thể xảy ra (Hình 2).
Đầu tiên liên quan đến tác động trực tiếp của ánh sáng lên chính các tế bào khối u và có thể được coi là việc sử dụng có chủ ý đường cong phản ứng-liều lượng hai pha để "dùng quá liều" các tế bào ung thư .
Phương pháp thứ hai dựa vào việc kết hợp PBM với một liệu pháp chống ung thư gây độc tế bào bổ sung, để nó tăng khả năng tiêu diệt tế bào ung thư, đồng thời bảo vệ các tế bào khỏe mạnh bình thường . Mặc dù điều này có vẻ "quá tốt để trở thành sự thật", nhưng có một số lý do khoa học giải thích tại sao nó có thể đúng như vậy trên thực tế. Những cân nhắc này có liên quan đến hiệu ứng Warburg: tế bào ác tính và tế bào bình thường có thể hành xử rất khác nhau khi phản ứng với PBM. Trong các tế bào ung thư, nơi nguồn cung cấp adenosine triphosphate (ATP) khá hạn chế, việc tăng cường ATP do PBM cung cấp có thể cho phép các tế bào ung thư phản ứng với các kích thích gây độc tế bào tiền apoptotic bằng cách tiêu diệt tế bào ung thư.
Cơ chế thứ ba mà PBM có thể mang lại lợi ích cho bệnh nhân ung thư là vai trò có thể của nó trong việc kích thích hệ thống miễn dịch chống lại ung thư. PBM cũng làm giảm số lượng đại thực bào tạo mạch cao trong khối u và thúc đẩy quá trình bình thường hóa mạch máu, đây là một chiến lược khác để kiểm soát sự tiến triển của khối u.
Có bằng chứng về hiệu quả lâm sàng?
Một bài báo rất thú vị gần đây đã báo cáo rằng PBM thực sự có thể làm tăng kết quả điều trị và khả năng sống sót không tiến triển ở bệnh nhân ung thư. 94 bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư hầu họng, vòm họng và hạ họng đã được xạ trị thông thường cộng với cisplatin cứ sau 3 tuần. PBM phòng ngừa được áp dụng cho chín điểm trên niêm mạc miệng hàng ngày, từ thứ Hai đến thứ Sáu và kéo dài trung bình 45,7 ngày. Các tham số PBM là 660 nm, 100 mW , 4 J/ cm 2 , và kích thước điểm 0,24 cm2 . Trong thời gian theo dõi 41 tháng, bệnh nhân dùng PBM có đáp ứng điều trị tốt hơn đáng kể về mặt thống kê so với những bệnh nhân ở nhóm giả dược (p = 0,013). Bệnh nhân dùng PBM có khả năng sống sót không tiến triển tốt hơn so với những bệnh nhân trong nhóm giả dược ( p = 0,030) và có xu hướng sống sót chung tốt hơn. (Các) cơ chế cho việc này tác dụng yêu cầu điều tra thêm.
Santana-Blank và cộng sự. đã thực hiện thử nghiệm PBM Giai đoạn 1 trên 17 bệnh nhân mắc nhiều ''khối u ác tính tiến triển''. Họ đã sử dụng tia laser hồng ngoại 904 nm, xung ở tốc độ 3MHz, được áp dụng bằng mũ cao 2 mm với chùm tia 10 mm đường kính và được đặt vuông góc với bề mặt da của bệnh nhân ở những khu vực đã được xác định trước đó gần nhất với các mạch điện khép kín sinh học và mạch kín kẽ mạch máu sẽ mang năng lượng laser đến các mô đích một cách hiệu quả nhất . Sự gia tăng đáng kể về mặt thống kê về tình trạng hiệu suất Karnofsky và chất lượng cuộc sống (QLI) đã được quan sát thấy trong tất cả các khoảng thời gian theo dõi so với các giá trị trước khi điều trị.
Kết luận
PBM đang trở thành một phương pháp được thiết lập tốt để giảm thiểu hoặc ngăn chặn sự phát triển của các tác dụng phụ liên quan đến liệu pháp điều trị ung thư. Câu hỏi hấp dẫn hơn không chỉ đơn thuần là liệu PBM có an toàn và hiệu quả ở bệnh nhân ung thư hay không, mà liệu PBM có thể đóng vai trò tích cực trong điều trị ung thư hay không? Có những báo cáo trêu ngươi rằng đây thực sự có thể là trường hợp, nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi cần được trả lời. Trong các trường hợp khác, tác dụng chính của PBM dường như là kích thích hệ thống miễn dịch.