Da – một bộ phận có khả năng tự điều chỉnh và ghi nhớ điện từ trường - Phần 2

Da – một bộ phận có khả năng tự điều chỉnh và ghi nhớ điện từ trường - Phần 2

Các nghiên cứu cho thấy rằng các tuyến mồ hôi, nếu chúng có khả năng truyền tải điện năng hay điện từ ở bất kỳ tần số nào, chúng sẽ đi vào bằng dải milimet: nghiên cứu này đặc biệt được xác định phạm vi cộng hưởng tương ứng với tần số 228 GHz; đây là bản dịch tóm tắt (xem phần 4 trong tài liệu tham khảo):

“Các ứng dụng Terahertz (THz) đã được phát triển nhanh chóng trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin và truyền thông, an ninh nội địa và kỹ thuật y sinh”. Tuy nhiên, các nghiên cứu về các mối nguy cơ tiềm ẩn về sức khỏe do các tác động sinh học khác nhau gây ra bởi sóng THz là tương đối hiếm. Trước đây, đã có báo cáo rằng tuyến mồ hôi ở người đóng vai trò quan trong trong các tương tác với sóng THz với da người do cấu trúc xoắn của nó. Cấu trúc này áp đặt do tính điện từ của các ăng-ten xoắn ốc. Để hiểu rõ hơn về hiện tượng này, chúng tôi đã nghiên cứu các đặc điểm hình thái của tuyến mồ hôi người và tính chất điện môi của môi trường xung quanh. Dựa trên những thông số này, chúng tôi đã ước tính tần số của các kênh mồ hôi trong các hoạt động bình thường và ước tính của chúng tôi cho thấy có một cộng hưởng lớn ở bước sóng 228 GHz.”

 


Cũng trong bối cảnh tương tự, sự ra đời của 5G và sóng milimet của nó mang lại đã kích hoạt báo động: sóng milimet có liên qua tới 5G* (xem khái niệm về sóng Terahertz ở phần tham khảo phía dưới) có liên quan đến bước sóng ngắn trong ứng dụng công nghệ địa phương (tòa nhà, môi trường sống…). Khái niệm về bước sóng ngắn có thể được xem xét lại nếu một nghiên cứu thăm dò trong nghiên cứu này chứng minh rằng với chỉ 1 mức năng lượng đơn là 1 Watt, 1 sóng liên tục là 73 Ghz mà vượt qua hơn 10 kilomet chướng ngại như đồi, núi, rừng, trong khu vực nông thôn… (xem phần 6 trong tài liệu tham khảo).

Nhưng còn đáng sợ hơn nữa: thật kỳ lạ, đây là nơi 5G sinh ra (ở Israel).
 (https://www.breakingisraelnews.com/110836/israel-incubating-5g-technology/) mà hầu hết các câu hỏi về sự nghi ngờ quan trọng nhất đã xuất hiện. Có nhiều nghiên cứu chứng minh tác hại của 5G.

Có điều rất đáng lo ngại, trong một nghiên cứu được công bố vào năm 2018 
(xem phần 9 trong phần tham khảo), với những con côn trùng tiếp xúc với tần số trên 6GHz có khả năng hấp thu sóng cao hơn khoản 3 đến 370% so với những con phơi nhiễm tần số dưới 6GHz: biết rằng, ít nhất ở Châu âu và Pháp có mục tiêu về mức băng tần tiên phong là 26 GHz…

Nhưng điều làm tôi ấn tượng nhất là những nhận xét mang tính cảnh báo của giáo sư Feldman, người đã giải thích tại sao sử dụng S.A.R (Specific Absorption Rate – tỷ lệ hấp thu cụ thể - 
xem thêm trong phụ lục 1: S.A.R) như một phương thức tham chiếu giả định mối nguy hại sức khỏe của nhóm làm việc ở nơi có sóng 5G trong hội nghị này (được đăng trên Youtube: https://www.youtube.com/watch?v=VuVtGldYXK4 ): “IEE 802.15 WPAN” không đo lường cách thức xâm nhập của các sóng thông qua tuyến mô hôi và khả năng phân cực của chúng được gọi là SKIN RAD EFFECT.

Một nghiên cứu khác ông trích dẫn trong suốt buổi hội thảo của Shafirstein, điều đó cho thấy rằng S.A.R không là phương thức đo lường thích đáng để ước tính hiệu quả sinh học tiềm năng, và sóng milimet có thể gia tăng nhiệt độ mô đáng kể…

Và cuối cùng, khi chúng ta nghĩ rằng cơ thể của chúng ta được hình thành với 80% là phân tử nước lưỡng cực và chúng ta nên đọc điều này, một định nghĩa rõ ràng trên WIKIPEDIA, làm tôi có thể nổi da gà cả ngày:

“Mức hấp thu mạnh mẽ của nước là ở sóng THz thường xuyên cho thấy một sự tương tác mạnh mẽ giữa mẫu sinh học và sóng THz. Thực tế, những sóng này gây rung/xoay các phân tử nước này và kích thích liên kết yếu lên các phân tử (liên kết hydro…) trong nước, protein.”

5G sắp xuất hiện trong tương lai, và không chắc chúng ta sẽ kiểm tra lại: vào ngày tôi viết bài báo cáo này, tôi đã xem một bộ phim tài liệu trên TV ở Pháp (Arte: Male at Risk…) điều đó đã giải thích cho khả năng sinh sản ở Châu Âu giảm xuống 40% trong vài thập kỷ và tiếp tục giảm theo từng năm. Sẽ sớm có những em bé trong ống nghiệm để làm mới lại loài người. Tôi không thể tưởng tượng rằng “Thế giới mới đầy dũng cảm” của Aldous Huxley sẽ trông rất hiện đại.

 


Michel Aerts, chuyên gia tư vấn công nghệ và là tác giả của trang “biohacking**” Pháp: www.bio-a-coeur.com
**biohacking: tấn công sinh học

“Mô thức của lĩnh vực từ trường dựa trên sự giả định của độ dẫn đồng nhất và đẳng trương của cơ thể và chỉ sử dụng mô thức đơn giản để đánh giá các dòng điện gây ra trong các cơ quan và vùng khác nhau của cơ thể, ví dụ, sử dụng phương trình để áp dụng cho mô hình hình sin thuần túy.” (ICNIRP, trang 37)

Nói cách khác:
-   Đặc điểm “sống” của cơ thể con người thì không được xem xét.
-   Mức quang phổ (từ điện thoại trong trường hợp này) thì không được tính tới: chỉ một mức đơn thuần liên tục được xem xét, thuộc phạm vi bước sóng.

Hầu hết thời gian, phép đo S.A.R được thực hiện với xác động vật hoặc các mô hoặc cơ quan tổng hợp tương đương hay mà có tính chất vật lý và hóa học tương tự với những mô sống. S.A.R không thể đo lường với não người trong hoạt động: đầu dò được ngâm trong một thùng chứa chất lỏng mô phỏng các tính chất điện của mô sinh học.

Thực tế, một bản sao chỉ là mẫu tổng hợp chứa lượng nước muối sinh lý với thể tích tương ứng lượng huyết thanh trong đầu người. Tuy nhiên, mẫu thử và tế bào đã chết là những đối tượng bị mất hoạt tính, không có sự sống và vì thế không thể đo lường về khả năng đáp ứng sinh học.

Do đó, S.A.R chỉ là một dấu hiệu vật lý của phần điện của vi sóng và về mặt này không có giá trị sinh học đáng kể, vì thề phương thức đo lường của nó không đồng thời với việc quan sát hiệu quả sinh học lên tế bào sống. Tuy nhiên, phép đo SAR trên cơ thể sống đề ra các vấn đề chưa rõ ràng. Do đó, người ta tự hỏi về tính hợp lệ và tính hữu ích của SAR như là phép đo và tính toán hiện đại, nếu nó không là dấu hiệu đơn giản về năng lượng lắng đọng trong các mô.

Tóm tắt: “Biocompatibilité électromagnétique, les champs électromagnétiques et le vivant »  Tecnolab 2001 p23.”

 
Nguồn:
6/ Millimeter wave travel 10 km in 5G experiment:
7/ Liquid blood memristor
8/ Bacteria affected by millimeter wave
9/ Exposure of Insects to Radio-Frequency Electromagnetic Fields from 2 to 120 GHz
10/ Modelling millimetre wave propagation and absorption in a high resolution skin model: the effect of sweat glands.
Ngoài ra:
Nghiêu cứu tác động sinh học của sóng Milimet một thông tin về điện trở nhớ: thử nghiệm trên thực vật.

Nghiên cứu và công bố bởi Yuri FELDMAN:
-   Y. Feldman, A. Puzenko, P. Ben Ishai, A. Caduff, and A. J. Agranat, "Human skin as arrays of helical antennas in the millimeter and submillimeter wave range,"
-   Y. Feldman, A. Puzenko, P. Ben Ishai, A. Caduff, I. Davidovich, F. Sakran et al., "The electromagnetic response of human skin in the millimetre and submillimetre wave range,"
-   I. Hayut, P. Ben Ishai, A. J. Agranat, and Y. Feldman, "Circular polarization induced by the three dimensional chiral structure of human sweat ducts,"
-   I. Hayut, A. Puzenko, P. Ben Ishai, A. Polsman, A. J. Agranat, and Y. Feldman, "The Helical Structure of Sweat Ducts: Their Influence on the Electromagnetic Reflection Spectrum of the Skin,"

11/ Thông tin cơ bản của sóng Terahertz
Sóng Terahertz củng tương tự như sóng radio hay vi sóng, và chúng được đặc giữa vi sóng và sóng quang: chúng được gọi là hồng ngoại xa: bước sóng của chúng được xác định bằng phép đo của khoảng cách giữa 2 peaks theo thứ tự milimet.
Đây là định nghĩa trên Wikipedia:
“Bức xạ terahertz hay bức xạ têrahéc (bức xạ terahertz, sóng terahertz, ánh sáng terahertz, T-rays, T-light, T-lux và THz) là một loại tia bức xạ điện từ có tần số nằm trong vùng phạm vi 300 gigahéc (3×1011 Hz) và 3 têrahéc (3×1012 Hz), nằm trong dải sóng 1 milimét và 100 micrômét.”
Khả năng thâm nhập cao của chúng đã được khai thác cho an ninh sân bay, ví dụ như trong máy quét người, để xem xuyên qua quần áo.

Trong wikipedia: "Sự hấp thụ mạnh của nước ở tần số THz cho thấy sự tương tác mạnh mẽ giữa các mẫu sinh học và sóng THz. Trên thực tế, các sóng này rung / xoay các phân tử nước cực và kích thích các liên kết năng lượng thấp liên phân tử (liên kết hydro ...) trong nước, protein ... Có rất nhiều ứng dụng của quang phổ THz trong lĩnh vực sinh học, ví dụ như nghiên cứu về hydrat hóa và cấu tạo của protein, DNA, phát hiện một số tế bào ung thư (giàu nước bất thường) ... "

Wikipedia về 5G: Bức xạ Terahertz có khả năng xuyên thấu mạnh mẽ. Chúng có khả năng xuyên qua nhiều vật liệu không dẫn điện (như da, quần áo, giấy, gỗ, bìa cứng, nhựa ...). Sự hấp thụ mạnh của nước ở tần số THz cho thấy sự tương tác mạnh mẽ giữa các mẫu sinh học và sóng THz. Thật vậy, những sóng này rung / xoay các phân tử nước cực và kích thích các liên kết năng lượng thấp liên phân tử (liên kết hydro ...) trong nước, protein ...



Xem lại: Da – một bộ phận có khả năng tự điều chỉnh và ghi nhớ  điện từ trường - Phần 1
Quay lại blog
1 trong số 2